Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) mang lại nhiều ưu đãi, tạo thêm sức cạnh tranh cho hàng thủy sản của Việt Nam.
- Nhiều lợi thế cạnh tranh cho thủy sản Viêt.
- Tôm là mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Bắc Âu.
Hiệp định EVFTA có hiệu lực đã và đang tạo lợi thế cạnh tranh cho các sản phẩm của Việt Nam về thuế nhập khẩu với các đối thủ, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập và mở rộng thị phần tại khu vực Bắc Âu.
Khi EVFTA có hiệu lực, gần 50% số dòng thuế được áp dụng thuế suất cơ bản từ 0-22%, trong đó phần lớn các loại thuế cao từ 6-22% sẽ giảm về 0% (khoảng 840 biểu thuế dòng). Khoảng 50% số dòng thuế còn lại có thuế suất cơ bản từ 5.5-26% sẽ giảm về 0% sau 3-7 năm. Đối với các sản phẩm cá ngừ và cá viên đóng hộp, hạn ngạch thuế quan của EU đối với Việt Nam là 11.500 tấn và 500 tấn tương ứng.
Tôm và phi lê cá đông lạnh là hai mặt hàng chủ lực của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Bắc Âu. Theo Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển, kiêm nhiệm Đan Mạch, Na Uy, Iceland, và Latvia, so sánh với các nước khác xuất khẩu thủy sản vào EU, lợi thế rõ rệt với tôm sú, tôm chân trắng đông lạnh khi tôm sú được giảm từ mức thuế GSP 4,2% về 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực, tôm chân trắng đông lạnh sẽ giảm dần về 0% sau 5 năm, trong khi Thái Lan và Ecuador không được hưởng GSP, không ký FTA, bị mức thuế cơ bản 12%; hay Ấn Độ và Indonesia cũng không có FTA, chịu thuế GSP 4,2%.
“Đối với mặt hàng tôm, đây là mặt hàng thủy sản chủ lực của Việt Nam sang Bắc Âu. Việt Nam là nhà sản xuất tôm sú lớn nhất thế giới và là nước xuất khẩu tôm sú lớn thứ hai sang châu Âu. Điều thuận lợi đối với tôm Việt Nam đó là rất nhiều tôm sú từ Việt Nam được đưa vào các siêu thị và chợ dịch vụ thực phẩm cao cấp của châu Âu. Nguyên nhân chính là do đã có một số lượng đáng kể các nhà sản xuất tôm sú được chứng nhận ASC ở Việt Nam. Tại các thị trường này, các nhà xuất khẩu của Việt Nam gặp rất ít hoặc không có sự cạnh tranh”- bà Nguyễn Thị Hoàng Thúy – Tham tán thương mại Việt Nam tại Thụy Điển cho hay.
Đối với sản phẩm cá tra đông lạnh đang hưởng thuế GSP 5,5% sẽ được hưởng thuế EVFTA 0% sau 3 năm, trong khi cá nước Indonesia sẽ vẫn chịu thuế GPS 5,5% và Trung Quốc chịu thuế cơ bản 0%. Theo bà Nguyễn Thị Hoàng Thúy, Việt Nam chi phối nhập khẩu cá tra vào thị trường châu Âu. Hiện tại, không có đối thủ cạnh tranh đáng kể đối với Việt Nam trên thị trường này. Hầu hết các sản phẩm cá tra xuất khẩu sang Bắc Âu đều có xuất xứ từ Việt Nam.
Bên cạnh mặt hàng tôm, cá tra đông lạnh được hưởng lợi từ EVFTA, một số mặt hàng chế biến có thuế suất cơ bản cao (20%) cũng sẽ giảm ngay về 0% như hàu, sò điệp, mực, bạch tuộc, nghêu, bào ngư…; hầu hết các mặt hàng mực, bạch tuộc đông lạnh có mức thuế cơ bản từ 6 – 8% sẽ giảm ngay về 0%; các sản phẩm khác như surimi giảm từ 14,2% xuống 0%, cá kiếm từ 7,5% xuống còn 0%…
Ngoài ra, các mặt hàng thủy sản Việt Nam tại Bắc Âu cũng được đánh giá có chất lượng cao, chi phí, giá thành thấp, nên dễ dàng vượt qua các rào cản về vệ sinh an toàn thực phẩm của các nước Bắc Âu, đồng thời giá cả cạnh tranh với các nước trong khu vực.
Bên cạnh đó, các nhà cung cấp Việt Nam và các nhà nhập khẩu châu Âu đã xây dựng được mối quan hệ bền vững và lâu dài với nhau, do đó, Việt Nam có lợi thế cạnh tranh cao. Lao động Việt Nam có giá cả phải chăng và các nhà máy được thành lập để chế biến cá tra nguyên liệu thành sản phẩm ưa thích của người tiêu dùng châu Âu. Phần lớn các sản phẩm cá tra, basa được xuất khẩu sang đây dưới dạng philê đông lạnh.
Để thủy sản Việt có thể “bám rễ” tại thị trường Bắc Âu
Mặc dù, Hiệp định EVFTA có hiệu lực giúp thuỷ sản Việt Nam có thêm lợi thế cạnh tranh, thị trường Bắc Âu nhỏ, các nước này lại chủ yếu nhập khẩu từ các nước xung quanh, nên thuỷ sản Việt Nam khó có cơ hội tăng kim ngạch, hoặc có tăng cũng không đáng kể.
Hiện nay, cá tra chi phối thị trường châu Âu và cá tra xuất hiện tại Bắc Âu chủ yếu có xuất xứ từ Việt Nam, nhưng thị phần cá tra Việt Nam tại Bắc Âu khá khiêm tốn, chỉ 0,4% tại Thụy Điển, 0,9% tại Đan Mạch và 2,6% tại Na Uy. Sở dĩ thị phần còn khiêm tốn, theo bà Nguyễn Thị Hoàng Thúy là do các doanh nghiệp Bắc Âu nhập khẩu cá tra Việt Nam chủ yếu thông qua trung gian từ các nước EU khác, lượng nhập khẩu trực tiếp từ Việt Nam không đáng kể. Ngoài ra, thị trường Bắc Âu là thị trường khó tính, với các quy định khắt khe cũng là một khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam. Mặt khác, hiện nay, doanh nghiệp vẫn chưa tận dụng hết cơ hội do EVFTA. Thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào khu vực này chủ yếu là hàng đông lạnh, nguyên liệu thô hoặc sơ chế qua, hàng có giá trị cao còn ít nên chưa tận dụng được lợi thế về ưu đãi thuế quan do Hiệp định EVFTA mang lại…
Để thủy sản có thể “bám rễ” tại thị trường Bắc Âu, theo bà Nguyễn Thị Hoàng Thúy, ngoài việc cung cấp đúng sản phẩm, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam còn phải tuân thủ rất nhiều các quy định của thị trường, nghiên cứu các yêu cầu bắt buộc của thị trường trên các cổng thông tin chính thức của EU như Trade Help Desk, CBI để hiểu các thủ tục liên quan đến thủy sản.
Bên cạnh đó, cần đáp ứng các yêu cầu bổ sung như chứng nhận an toàn thực phẩm, chứng nhận tuân thủ xã hội, chứng nhận bền vững, các yêu cầu đối với thị trường ngách. Đặc biệt, các doanh nghiệp cần lưu ý dán nhãn với thông tin chính xác.
“Dán nhãn sai tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh. Bắc Âu nhập khẩu chủ yếu cá phile và tôm bóc vỏ của Việt Nam. Những sản phẩm này rất nhạy cảm với những sai sót như ghi sai số lượng nước thêm vào qua quá trình mạ băng và ngâm nước. “- bà Nguyễn Thị Hoàng Thúy lưu ý.
Ngoài ra, người tiêu dùng Bắc Âu cũng quan tâm đến nguồn gốc của thực phẩm, cách thức sản xuất và hành trình đến bàn ăn tiếp tục tăng lên.
Theo Bộ Công Thương
Bài đọc thêm