Đây là lần đầu tiên sản phẩm mật ong của Việt Nam bị điều tra PVTM nên khó tránh khỏi việc các doanh nghiệp cảm thấy hoang mang, lo lắng…
Tại tọa đàm trực tuyến: “Ngành mật ong ứng phó với việc Hoa Kỳ điều tra chống bán phá giá”, vừa qua, bà Phạm Châu Giang – Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương) cho biết: “Do Mỹ chưa công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường nên trong vụ việc này, gần như chắc chắn Cơ quan điều tra Mỹ sẽ sử dụng chi phí tại Ấn Độ để xác định giá thông thường làm căn cứ so sánh với giá xuất khẩu của Việt Nam. Đây là điểm bất lợi nhất đối với doanh nghiệp của ta trong vụ việc do chi phí sản xuất mật ong tại Ấn Độ được cho là cao hơn Việt Nam”.
Theo ông Lê Thanh Vân – Chủ tịch Hội Xuất khẩu mật ong Việt Nam cho biết cả nước hiện có khoảng 35 doanh nghiệp xuất khẩu mật ong, với kim ngạch hàng năm khoảng 70 – 100 triệu USD.
Trong 9 tháng năm 2021, xuất khẩu mật ong đạt 83 triệu USD, tăng 65,2% so với cùng kỳ 2020. Hiện tổng sản lượng mật ong của cả nước đạt bình quân 57.000 tấn/năm, trong đó 90% tiêu thụ qua kênh xuất khẩu, trong đó 95% lượng xuất khẩu là vào thị trường Mỹ.
Theo thống kê của hải quan Mỹ, kim ngạch xuất khẩu mật ong của Việt Nam vào thị trường Mỹ đạt 50.700 tấn năm 2020, chiếm khoảng 25,8% tổng lượng nhập khẩu mật ong của nước này.
“Nếu Mỹ áp dụng thuế chống bán phá giá với mật ong Việt Nam, thì hầu hết những doanh nhỏ, rất nhỏ và vừa, người nuôi ong rất vốn nhỏ, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của người dân và doanh nghiệp rất khó khăn”, ông Vân lo lắng.
Ông Lê Thanh Vân bổ sung thêm, nước Mỹ cũng là quốc gia có nền chăn nuôi ong lớn, với 2,7 triệu đàn ong, sản lượng mật ong đạt 255.000 tấn mỗi năm. Về phần mình, Hội Xuất khẩu mật ong Việt Nam đang hợp tác chặt chẽ với Mỹ trong vụ điều tra. Trước tiên là cung cấp đầy đủ giấy tờ với thông tin chính xác, minh bạch cho phía Hoa Kỳ.
Để đối phó với các biện pháp điều tra PVTM đối với sản phẩm nông sản nói chung và mặt hàng mật ong nói riêng trước mắt cũng như lâu dài, các chuyên gia cho rằng, vấn đề chất lượng sản phẩm vẫn luôn phải được coi trọng. Cùng với đó, các biện pháp cảnh báo sớm và mở rộng thị trường sẽ là những giải pháp mang tính bền vững cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam trong tương lai.
Ông Tống Xuân Chinh – Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi cho hay, Hiệp hội nuôi ong Việt Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với Mỹ trong vụ điều tra. Phía Bộ NN&PTNT đã đề nghị cơ quan có thẩm quyền tác động với đối tác Mỹ trong việc xem xét chứng minh về việc phá giá trong sản phẩm mật ong của Việt Nam để đình chỉ điều tra hoặc có mức thuế phù hợp.
“Để tránh xảy ra sự việc tương tự, chúng ta cần đa dạng hóa thị trường, mở rộng xuất khẩu ra nhiều nước khác trên thế giới. Tránh phụ thuộc quá nhiều vào 1 thị trường như Mỹ sẽ rất dễ dẫn tới những ảnh hưởng nặng nề về việc xuất khẩu. Cùng với đó, các DN và người dân cần tập trung nhiều hơn nữa về chất lượng sản phẩm”, ông Chinh khuyến cáo.
Ông Đinh Quyết Tâm – Chủ tịch Hội nuôi ong Việt Nam cho rằng, bản thân các doanh nghiệp thương mại mật ong của Việt Nam đều là các doanh nghiệp nhỏ, thậm chí siêu nhỏ với doanh số hàng năm chỉ khoảng 2 – 3 tỷ đồng. Nguồn vốn cũng ít chủ yếu là vốn vay, nhưng lại không vay được qua nguồn chính thức là ngân hàng mà thông qua doanh nghiệp quỹ đầu tư, thậm chí vay bên ngoài.
“Nguồn lực hạn chế, khi đối diện với sự điều tra và nghi ngờ của đối tác sẽ là khó khăn rất lớn đối với các doanh nghiệp, người nuôi ong”, ông Tâm nêu thực tế, đồng thời cho biết Hiệp hội nuôi ong Việt Nam cũng đã thảo luận thống nhất chung là mặc dù nguồn lực kinh tế hạn chế, nhưng trong các vụ khởi kiện chống bán phá giá của thế giới buộc các doanh nghiệp phải có luật sư hỗ trợ.
Được biết, hiện nay có trên 20 doanh nghiệp đã hợp tác với luật sư để tiến hành các điều tra sơ bộ của Mỹ. Ngoài những doanh nghiệp điều tra bắt buộc, có những doanh nghiệp tự nguyện làm đơn giải trình.
Theo Tạp chí Công Thương
Bài đọc thêm: